Căn cứ vào nguồn gốc của các từ, các nhà nghiên cứu chia
từ vựng tiếng Việt thành hai lớp:
từ thuần Việt và từ mượn hay còn gọi là từ ngoại lai. Nội dung của hai khái niệm
từ thuần Việt và từ mượn không có ranh giới rõ ràng vì từ vựng có xu hướng biến đổi, phát triển qua nhiều giai đoạn, cho nên người ta chỉ có thể xác định ranh giới một cách
tương đối chắc chắn nếu xét chúng trong những giai đoạn lịch sử cụ thể. Những từ mượn trong giai đoạn này có thể được coi là từ thuần Việt trong giai đoạn tiếp theo. Tiếng Việt trong giai đoạn hiện nay chứa đựng nhiều từ ngữ giống hoặc tương tự với các từ ngữ trong nhiều thứ tiếng khác như:
tiếng Mường,
tiếng Thái,
tiếng Tày-Nùng,
tiếng Bana,
tiếng Gialai,
tiếng Êđê,
tiếng Khmer,
tiếng Hán (bao gồm cả
từ Hán-Việt gốc Nhật),
tiếng Pháp,
tiếng Nga,... và đặc biệt trong thời gian gần đây là
tiếng Anh[1]. Tiếng Việt mượn khá nhiều từ tiếng Anh trong
ẩm thực,
thể thao và
giải trí. Dù nhiều từ đã có từ thuần Việt nhưng mọi người vẫn quen sử dụng từ mượn tiếng Anh
[2]. Tuy nhiên do trình độ tiếng Anh khác nhau, sự khác nhau về ngữ âm giữa các phương ngữ của tiếng Việt và do quan niệm về cách đọc của các biên tập viên mà chưa có sự thống nhất cách đọc, cách viết của nhiều từ mượn. Ví dụ, cùng bắt nguồn từ từ tiếng Anh
Valentine /ˈvæləntaɪn/ có hai cách nói là "va-len-tin" và "va-len-thai".Theo thống kê của
H. Maspéro, vào năm 1972 thì có hơn 60% từ Việt có gốc Hán. Về từ mượn tiếng Pháp, thống kê của
Nguyễn Quảng Tuân và
Nguyễn Đức Dân, vào năm 1992 cho biết có khoảng hơn 2.000 từ gốc Pháp được sử dụng tại Việt Nam. Từ điển từ mới (Viện Ngôn ngữ học, 2002) đã thu thập khoảng 3.000 từ mới các loại trong vòng 15 năm (1985 - 2000) từ mượn chủ yếu từ tiếng Anh.
[3]